🏀 Bà Lão Cúi Đầu Nín Lặng
Đọc truyện ngắn, không ai lại không xúc động trước dòng diễn biến tâm trạng đầy phức tạp nhưng vô cùng đáng thương lai đầy nhân hậu của bà cụ Tứ đặc biệt được thể hiện trong đoạn trích: "Bà lão cúi đầu nín lặng nước mắt cứ ròng ròng".
Bà không thể tin rằng con mình lấy vợ trong hoàn cảnh này. Nhưng khi hiểu ra cớ sự, “bà lão cúi đầu nín lặng”, bà hờn tủi xót thương cho số kiếp của đứa con mình và cho thân phận của mình. “Chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”.
3.Cảm nhận về bà cụ tứ trong đoạn trích bà lão cúi đầu nín lặng … 4.ĐỀ BÀI: “”…Bà lão cúi đầu… – Trung tâm luyện thi Trường Thu; 5.Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ; 6.“Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng
Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau… Chẳng qua nó cũng là cái số cả… Và thế là bà lão cúi đầu nín lặng. Không phải là im lặng mà là nín lặng – tức là im lặng, nín nhịn vì không thể nói được điều gì. Bà cụ Tứ đã hiểu hết mọi chuyện.
ĐỀ 1: “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra. biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai ốn vừa xót thương cho số kiếp đưa con mình. …. Bà cụ nghẹn. lời khơng nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống rịng rịng.” (Vợ nhặt, Kim
Nhà văn Kim Lân chuyên viết thể loại truyện ngắn, ông đã có tác phẩm được đăng báo trước Cách mạng. Tác phẩm Vợ nhặt không chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà còn thể hiện được bản chất tốt đẹp của họ: ngay trên bờ vực của cái chết
Đoạn trích “Bà lão cúi đầu nín lặng … con cái chúng mày về sau” là một minh chứng tiêu biểu, đồng thời qua đó giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc hơn về nhân vật bà cụ Tứ.
Thư viện tài liệu học tập, tham khảo online lớn Đáp án đề thi tham khảo ngữ văn 2022 THPT Quốc gia I ĐỌC HIỂU: Câu 1: Thể thơ tự Câu 2: Để lại: Bãi sông xanh trị văn hóa dân tộc - Tuyên truyền, tham gia giữ gìn, bảo vệ giá trị văn hóa Tổng kết Câu 2: I
Bà lão cúi đầu nín lặng, băn khoăn mãi và bây giờ “bà lão hiểu rồi”. “Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp con mình”.
WHn8H. Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ khi Tràng đưa người vợ “nhặt” về nhà Gợi ý làm bài Mở bài Giới thiệu khái quát về tác giả Kim Lân, tác phẩm “Vợ nhặt”, đoạn trích, nhân vật bà cụ Tứ. Sơ lược tình huống truyện Tràng với hai lần gặp gỡ, bông đùa mà thị theo về; tam trạng bà cụ Tứ phần trước đoạn trích ngạc nhiên khi Tràng đón tận ngõ, phấp phỏng bước vào nhà; ngạc nhiên hơn khi thấy người đàn bà lạ trong nhà, chào mình bằng “U” Thân bài Diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích + Khi hiểu cơ sự, bà cúi đầu nín lặng; lòng ai oán, xót thương cho số kiếp đứa con mình “Chao ôi, … Còn mình thì…”; khóc và lo lắng cho số phận của các con “Biết rằng chúng nó… này không” + Bà thở dài, cảm thông với hoàn cảnh của người đàn bà lạ “Người ta có gặp bước khó khăn,… con mình mới có vợ được…” và mở rộng lòng mình chấp nhận nàng dâu mới. + Bà mừng cho hạnh phúc của con “Ừ, thôi thì … u cũng mừng lòng…”, khuyên và động viên con bằng những lời đôn hậu, trăn trở cho hoàn cảnh gia đình mình. + Thương xót, ái ngại cho tình cảnh của nàng dâu mới; xúc động, nghẹn ngào “nghẹn lời …chảy xuống ròng ròng” + Nghệ thuật Bằng vài chi tiết miêu tả hành vi, cử chỉ; khắc họa qua ngôn ngữ giản dị, phương ngữ Bắc bộ ngữ, Kim Lân đã thể hiện một cách tinh tế, sinh động tâm trạng phức tạp, đầy mâu thuẫn của một người mẹ nghèo, trải đời. – Tư tưởng nhân đạo của nhà văn Kim Lân Qua nhân vật bà cụ Tứ, tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn người lao động nghèo Việt Nam nói chung, người phụ nữ nói riêng nhân hậu, bao dung, vị tha, yêu thương con, lạc quan, sẵn lòng cảm thông và cưu mang những người cùng cảnh ngộ, … Kết bài Đánh giá chung Việc miêu tả diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ góp phần tạo nên giá trị cho tác phẩm; thể hiện tấm lòng của tác giả. Phân tích hình tượng bà cụ Tứ trong truyện “Vợ nhặt” Bài tham khảo Mở bài Nhà văn Kim Lân tâm sự “ Phần gây xúc động lớn nhất cho tôi khi đọc lại truyện ngắn Vợ nhặt đó là đoạn bà cụ Tứ- mẹ Tràng trở về”. Thông điệp nghệ thuật về bản chất nhân đạo trong tâm hồn người Việt ở hình tượng nhân vật bà cụ Tứ đã được Kim Lân thể hiện thành công qua diễn biến tâm trạng của người mẹ nghèo ấy khi nhìn thấy chị vợ nhặt xuất hiện trong nhà mình cho đến buổi sáng ngày hôm sau. Thân bài Ngạc nhiên và bất ngờ là tâm trạng đầu tiên ở người mẹ nghèo khi lật đật theo con từ ngõ vào nhà. Từ trước đến giờ có bao giờ Tràng mong ngóng mẹ về đến thế đâu, nhất định là phải chuyện gì quan trọng, khác thường. Chân bước theo con nhưng lòng bà đang phấp phỏng. Rồi “đứng sững lại” khi bà nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở đầu giường con trai bà , mà lại chào bà bằng u. Ngạc nhiên đã làm cho bà lão không còn tin vào cảm giác của bà nữa, tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn đi thì phải. Nhưng thực sự mắt bà không nhoèn, và tai bà cũng không đến mức điếc lác như chị vợ nhặt nghĩ ban đầu. Bà chưa thể tin, không thể tin rằn con mình lại có người theo và lại chưa bao giờ hình dung nhận dâu trong một tình cảnh trớ trêu, tội nghiệp đến thế. Bà lão cúi đầu nín lặng, đằng sau cái cúi đầu nín lặng ấy là dòng cảm xúc tuôn trào, là cơn bão lòng đang cuộn xoáy với tình thương con vô bờ bến. Bây giờ thì bà không chỉ biết sự việc “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ” như lời Tràng thưa gửi mà bà còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của con trai mình. Bà tủi thân, tủi phận, bà so sánh người ta với mình “người ta dựng vợ gả chồng cho con những lúc nhà ăn lên làm nổi, còn mình thì…”. Bà lão chua chát, tự trách bản thân mình, càng thương con bao nhiêu bà lại càng tủi phận bấy nhiêu. Bà lão đã khóc, những giọt nước mắt hiếm hoi của người già dưới ngòi bút nhạy cảm của Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc biết bao thương xót, tủi buồn. Bà đã chấp nhận nàng dâu không phải chỉ bằng tình mẫu tử mà lớn hơn đó là tình người, là sự cảm thông với chị vợ nhặt từ cái nhìn của người cùng giới, cùng là phụ nữ. Câu nói đầu tiên mà bà cụ Tứ dành cho chị vợ nhặt “Ừ thôi các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”, lời nói của bà như trút đi biết bao gánh nặng tâm trạng đang đè nặng trong Tràng, lời nói ấy như một sự chiêu tuyết cho giá trị của cô vợ nhặt. Câu nói ấy của bà làm cuộc hôn nhân của Tràng và thị không còn là chuyện nhặt nhau ở đường và chợ nữa mà là duyên phận. Cách nói giản dị mà chan chứa tình người quả thực đã làm ấm lòng những số phận tội nghiệp. Thị và Tràng dường như cũng sẽ ấm lòng hơn khi kinh nghiệm của một người mẹ từng trải nói “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà động viên an ủi con trai và con dâu cùng nhau bước qua khó khăn đói khổ trước mắt mà lòng đầy thương xót. Nhưng sau những lời động viên ấy ta lại thấy Kim Lân để nhân vật bà cụ Tứ quay về với chính cuộc đời mình để mà lo lắng cho hạnh phúc thực tại của hai con. Điều mà bà lo không phải là “sự hợp nhau hay không hợp nhau” giữa hai người mà điều mà người mẹ ấy lo lắng đó là, cái đói đang đe dọa hạnh phúc của con bà. Trong bóng tối, bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của đời mình, cuộc đời của những người thân để mà thấu hiểu, thương xót rồi “nghẹn lời” chỉ có dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng. Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây, bà động viên an ủi các con, nghĩ về một tương lai tươi sang phía trước. Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà xăm xắn quét dọn, giẫy những búi cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ với hy vọng đời sẽ có cơ khấm khá. Trong bữa ăn đầu tiên, mâm cơm ngày đói sao thảm hại chỉ có một lùm rau chuối thái rối, một đãi muối, một niêu cháo lõng bõng toàn nước và món chính là chè khoán- cháo cám nhưng không khí gia đình thật ấm áp, tình chồng vợ, tình mẹ con- những nguồn động lực lớn lao ấy giúp họ tăng thêm sức mạnh để vượt qua thực tại. Bà cụ Tứ toàn nói chuyện của tương lai, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Bà lão bàn với con tính chuyện nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có đàn gà cho mà xem. Câu chuyện của bà lão bất giác làm cho ta nhớ lại bài ca dao miền Trung- mười cái trứng. Cũng giống như tất cả những người bình dân xưa, bà lão đang gieo vào lòng các con bà niềm lạc quan, niềm tin và hi vọng. Từ đàn gà mà có tất cả. Khát vọng sống bật lên ngay cả trong hoàn cảnh khốn cùng nhất “chớ than phận khó ai ơi- Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”. Song niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và tiếng trống thúc thuế dồn dập vội vã đưa bà cụ Tứ trở về với thực tại với tiếng nói xen lẫn cả hơi thở dài trong lo lắng “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống được qua được đâu các con ạ”! Và bà lại khóc, tình thương con lại hiện hình qua những giọt nước mắt lặng lẽ tuôn rơi. Kết bài Với sự thấu hiểu, với sự đồng cảm, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ – người mẹ thương con, nhân hậu, bao dung. Trong hoàn cảnh đói nghèo, bà vẫn dang rộng cánh tay đón nhận người con dâu mặc dù trong lòng còn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn gieo vào lòng các con ngọn lửa sống trong hoàn cảnh tối tăm của xã hội lúc bấy giờ. Bài tham khảo Mở bài Có thể nói, thành công đầu tiên trong truyện ngắn “Vợ nhặt” đó chính là việc nhà văn Kim Lân đã phát hiện ra một nét đẹp hồn hậu trong nhan vật bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo khổ nhưng có trái tim bao dung, nhan hậu. Thân bài Bà cụ Tứ, người phụ nữ nghèo khổ, chồng mất sớm, là dân ngụ cư, sống lay lắt trước nạn đói đang đe dọa. Bà sống cùng Tràng – người con trai làm nghề kéo xe bò thuê, xấu trai, ế vợ. Tác phẩm đặt nhân vật vào hoàn cảnh hoàn toàn bất ngờ trước tình huống đứa con trai vào những ngày đói khủng khiếp, bỗng dưng nhặt được vợ về. Nhà văn đã theo dõi và phân tích một cách độc đáo những diễn biến tâm trạng của người mẹ nghèo. Bà cụ Tứ ngạc nhiên trước việc con trai có vợ. Khi vừa đến nhà thấy đứa con trai “reo lên như một đứa trẻ”. Bà “phấp phóng” theo con vào trong nhà, khi thấy có người đàn bà xa lạ đến nhà mình và gọi mình bằng u, bà hết sức ngạc nhiên. Nhà văn Kim Lân đã chọn ngôn ngữ độc thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng ngạc nhiên của bà cụ. Bà lạo đứng sững lại, với bao nhiêu câu hỏi ùa về “Quái sao lại có người đàn bà lạ trong nhà ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục. Ai thế nhỉ?” Bà lão “thấy mắt mình nhoèn đi thì phải” bà nhìn kĩ lại người đàn bà nhưng bà vẫn “không hiểu”. Bà không hiểu bởi lẽ, bà hiểu rất rõ gia cảnh của mình cùng cảnh ngộ của đứa con trai trong nạn đói. Ai đến nhà bà trong hoàn cảnh này? Thế mà lại có người đàn bạ lạ hiện diện trong nhà bà, lại chào bà bằng u. Khi hiểu ra, bà cụ vừa tủi thân, vừa xót thương lo lắng, vừa mừng vui cho con trai và con dâu. Nhưng bằng sự kinh nghiệm và sự từng trải, qua thái độ rối rít như một đứa trẻ cùng với những câu phân trần, cắt nghĩa không mấy rành rẽ của con trai bà đã hiểu ra cơ sự. Khi hiểu ra con trai có vợ “bà cúi đầu nín lặng”. Một sự nín lặng chất chứa bao suy nghĩ “Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Bà lão tủi thân, xót thương và lo lắng cho con. Bà tủi thân bởi bà là mẹ mà bà không vun vém được hạnh phúc cho con, bà day dứt vì mình chưa làm tròn bổn phận “chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nối… còn mình thì”. Bà khóc thương cho con “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Bà lo lắng cho cuộc sống trước mắt của con mình “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này hay không” Từ chỗ xót xa cho đứa con trai bà chuyển sang thương xót cho người đàn bà. Bà thấu hiểu, xót thương cảnh ngộ của người phụ nữ xa lạ bỗng trở thành con dâu mình… Tác giả sử dụng ngôn ngữ độc thoại diễn tả thật xúc động những suy nghĩ âm thầm của người mẹ “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ… Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà chẳng lo lắng được cho con… May ra mà qua khỏi cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết thì cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được”. Bà ôn tồn, nhẹ nhàng nói với nàng dâu “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”. Câu nói của bà làm cho ngực Tràng nhẹ hẳn đi đồng thời cũng là trả lại danh dự và giá trị cho người vợ nhặt. Có thể nói sự từng trải, trái tim nhân hậu bao dung đã giúp bà mẹ nghèo vượt qua được những định kiến hẹp hòi để đạt đến sự cảm thông lớn lao, chấp nhận con dâu và mừng hạnh phúc cho con. Bà cụ vẫn không hết lo lắng, từ tốn dặn dò, bảo ban nàng dâu mới những điều chí tình chí nghĩa, hướng con đến tương lai “Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng may về sau…” Ngòi bút của nhà văn thật tinh tế khi miêu tả sâu sắc tâm trạng lẫn lận buồn vui, lo lắng của bà cụ Tứ. Niềm vui của người mẹ nghèo khổ trong cảnh ngộ này thật tội nghiệp. Nó trở nên héo hắt vì không sao thoát ra khỏi nỗi ám ảnh của sự buồn tủi, xót thương. “Bà lão thở nhẹ ra một hơi dàu. Bà lão nghĩ đến ông lạo, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lạo nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?”. Bà lão, nhìn người đàn bà, lòng đầy xót thương. Bà mong con mình “Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Bà nghẹn lời không nói được được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Thế nhưng, sự xuất hiện của nàng dâu mới đã đem đến cho cái gia đình nghèo khổ này một không khí đầm ấm, hòa hợp chưa bao giờ có. Trong không khí ấy, bà cụ Tứ “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Cùng với nàng dâu, bà cụ “xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa” cho quang quẻ, nề nếp để “cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn”. Trong bữa cơm sáng dù chỉ có cháo loãng, ít ra chuối chấm muối và chè cám đắng chát nhưng cả nhà đầu ăn rất ngon, bà cụ “nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau”. Bà cố vui để động viên an ủi con trai, con dâu. Bà đang nhen nhóm niềm vui, niềm hi vọng cho dâu con của mình hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Bởi hơn ai hết bà hiểu nạn đói đang ập xuống đầu mẹ con bà “bà vội ngoảnh mặt ra ngoài. Bà lão không để cho con dâu nhìn thấy bà khóc”. Kết bài Khắc họa diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ, ngòi bút của nhà văn rất tỉ mỉ, chân thực, cảm động, nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế, ngôn ngữ quê kiểng mà trong sáng chọn lọc. Nhà văn đã miêu tả thành công nhân vật bà cụ Tứ với những tâm trạng khác nhau. Bà là một người mẹ nghèo, rất mực thương con, nhân hậu bao dung, có niềm tin vào tương lai hạnh phúc tươi sáng. Bà là hình ảnh tiêu biểu mang phẩm chất của người mẹ Việt Nam. Ý nghĩa nhan đề “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân Phân tích hình tượng người vợ nhặt trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân Tình huống truyện độc đáo, kì lạ, oái oăm và chứa đựng nghịch lí trớ trêu trong truyện ngắn “Vợ Nhặt” của Kim Lân
Đề 1 Cho đoạn trích sauBà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết baonhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựngvợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặtsau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biếtrằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này lão khẽ thở dài ngEng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tàáo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này,người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được… Thôi thì bổn phận bà làmmẹ, bà đã chẳng lo được cho con…May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằngcon bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biếtthế nào mà lo cho hết được?Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”- Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dàira sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời- Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may màông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cáichúng mày về lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sángtrắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gióthoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứacon gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nólấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?...- Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà đàn khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bà lão hạ thấp giọngxuống thân mật- Kể ra làm dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấpnhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói tođấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá… Trích Vợ nhặt – Kim Lân, SGK Ngữ văn 12 tập 2, NXB GDCảm nhận của anh/chị về đoạn trích. Từ đó làm rõ tư tưởng nhân đạo của nhà văn.
I, Dàn ý tham khảo 1, Mở bài - Giới thiệu tác giả Kim Lân - Giới thiệu tác phẩm Vợ nhặt + Hoàn cảnh sáng tác + Nội dung + Nghệ thuật - Giới thiệu chung về tâm trạng bà cụ Tứ qua đoạn trích 2, Thân bài a, Tóm tắt hoàn cảnh dẫn đến đoạn trích b, Tóm tắt khái quát về bà cụ Tứ c, Phân tích đoạn trích - Khi anh Tràng đưa thị về ra mắt bà Tứ là một chi tiết nhỏ nhưng lại có sức ám ảnh và lay động người đọc. Khi hiểu ra “cơ sự”, người mẹ nhạy cảm nhận ra cảnh bi hài của câu chuyện, để rồi nỗi tủi thân đã hóa thành nước mắt “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. => Lòng bà ngổn ngang trăm mối, chồng chất bao nỗi niềm suy tư. - “mừng”cho hạnh phúc của các con. Bao nhiêu nỗi niềm được nén lại của người mẹ trong mấy chữ“Ừ! thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Mẹ chỉ “mừng lòng” chứ không phải là “vui lòng”. => Vì một lẽ giản đơn, đặt trong hoàn cảnh đói kém như thế nỗi mừng chưa đủ để gọi là vui. Nhưng chính câu nói ấy đã xua tan nỗi phấp phỏng lo âu cho Tràng, xóa đi nỗi bẽ bàng, lo sợ cho người con dâu, thổi vào tâm hồn đôi trẻ một luồng gió mới và mở ra một hạnh phúc trong tầm tay. 3, Kết bài - Khẳng định giá trị của bài văn - Tình cảm của em dành cho nhân vật II, Bài văn tham khảo Những năm tháng trước cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân trong trang viết của các nhà văn khốn khổ đến mức tột cùng. Ở Ngô Tất Tố, ta bắt gặp chị Dậu với bầu trời tăm tối, ở Nguyễn Công Hoan là tình cảnh cho vay lấy lãi nặng nề. Còn đến Kim Lân, sau nỗi đau của ông Hai, nhà văn lại tìm về với nạn đói 1945 với câu chuyện ngắn “Vợ nhặt”. Kim Lân – nhà văn được mệnh danh là cha đẻ của đồng ruộng, là nhà văn một lòng đi về với đất với trời với những giá trị thuần hậu nguyên thủy của con người Việt Nam. Văn Kim Lân hấp dẫn người đọc bởi cốt truyện đơn giản, lối kể hấp dẫn và khả năng phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo. Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân đã thành công ở việc xây dựng diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ qua đoạn trích sau " Bà lão cúi đầu nín lặng... U cũng mừng lòng". Bà Tứ là người dân xóm ngụ cư vốn không được coi trọng ở vùng nông thôn lúc bấy giờ. Hơn nữa, xóm ngụ cư của bà Tứ cái đói đã tràn đến từ lúc nào. Người chết như ngả rạ. xác chết nằm còng queo bên đường…Trong cuộc sống như vậy, mẹ con bà Tứ hẳn nhiên phải đối mặt với cái đói khát và cái chết cận kề. Ngôi nhà bà Tứ “đứng rúm ró” trên một mảnh vườn mọc lổn nhổn những khóm cỏ dại. Trong nhà chỉ có vài vật dụng sơ sài. Suốt cuộc đời, bà Tứ phải vật lộn với miếng ăn, với cuộc sống mưu sinh, sống trong sự nghèo khổ, sống trong cuộc sống dai dẳng của mình. Nghĩ đến cuộc đời của mình, bà Tứ vừa buồn vừa khổ, vừa xót xa cho số kiếp của mình, của con mình. Truyện ngắn “Vợ nhặt” được đặt trong bối cảnh nạn đói thê thảm năm 1945 với trên hai triệu đồng bào nước ta bị chết đói. Trong cái chết bủa vây ấy, Tràng dẫn cô vợ về nhà ra mắt mẹ. Sự kiện này làm xáo động cả vùng quê, cả xóm ngụ cư nghèo khổ. Họ ngạc nhiên vì trong thời buổi đói khát này, Tràng lại liều mạng rước thêm một miệng ăn. Là người trong cuộc nhưng chính Tràng cũng ngạc nhiên không kém, anh không thể ngờ được mình lại có vợ, vợ theo, lấy vợ một cách hiển hách. Rồi đến cả bà cụ Tứ, dường như bà như không dám tin vào mắt vào tai mình. Việc Tràng dẫn người con gái lạ về ra mắt mẹ đã khiến cho bà cụ Tứ ngạc nhiên. Khi vào nhà, bà lão “đứng sững lại”. Bà tự đặt ra một loạt những câu hỏi trong suy nghĩ “Người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?”, “Sao lại chào mình bằng u?”, “Ai thế nhỉ?”. Ngay cả khi Tràng mở lời “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ !”, bà Tứ vẫn “băn khoăn” không dám tin về sự xuất hiện của người vợ nhặt. Tâm trạng của bà cụ Tứ khi nhìn thấy sự xuất hiện của người vợ nhặt trong nhà giúp cho tình huống Tràng nhặt vợ trở nên chân thực, khách quan. Khi anh Tràng đưa thị về ra mắt bà Tứ là một chi tiết nhỏ nhưng lại có sức ám ảnh và lay động người đọc. Khi hiểu ra “cơ sự”, người mẹ nhạy cảm nhận ra cảnh bi hài của câu chuyện, để rồi nỗi tủi thân đã hóa thành nước mắt “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Lòng bà ngổn ngang trăm mối, chồng chất bao nỗi niềm suy tư. “Kẽ mắt kèm nhèm” là sự hiện hình của một bức chân dung đầy khổ hạnh của người phụ nữ nông dân lớn tuổi. Là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng tình thương con thắt lòng. Từ “rỉ” miêu tả giọt nước mắt ít ỏi, khó khăn. Dường như bà cụ Tứ đang phải kìm nén cảm xúc của chính mình, bao nhiêu tủi phận, cay đắng, xót xa như nghẹn lại trong lòng khiền bà không thể khóc. Hình ảnh “giọt nước mắt” trong lần miêu tả thứ nhất của bà cụ Tứ khiến người đọc đắng lòng bởi số kiếp nghèo khổ, khốn khó, tội nghiệp của con người. Biết bao nhiêu cơ cực của cuộc đời đã chất chứa, dồn tụ và ứ nghẹn trong dòng nước mắt hiếm hoi, ít ỏi ấy. Viết về hình ảnh “giọt nước mắt”, Nguyễn Khuyến trong bài Khóc Dương Khuê cũng có câu “Tuổi già như hạt lệ sương Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan” hay Nam Cao khi miêu tả nước mắt của Lão Hạc “Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra”. Những năm tháng trải đời với biết bao cay đắng khiến cho họ dù đau đớn nhưng cũng đã cạn khô nước mắt , chai sạn với cuộc đời nên những dòng nước mắt chỉ là sự “rỉ” ra hiếm hoi mà thôi. “Giọt nước mắt” ấy thể hiện sự hờn tủi cho thân phận nghèo khổ,xót thương cho đứa con của bà cụ Tứ. Bà cụ tủi thân vì cho rằng mình chưa làm tròn bổn phận người mẹ “chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Với người phụ nữ Việt Nam thì nào đâu chỉ có việc mang nặng đẻ đau, nuôi con trưởng thành, mà còn phải lo cho con yên bề gia thất. Cha mẹ nào chưa lo được tấm chồng, cô vợ cho con thì chết không nhắm mắt được. Với quan niệm truyền thống ấy, bà cụ Tứ cũng hiện lên đầy tâm sự. Trong lời độc thoại ở trên, bà đã thầm so sánh “người ta” với “mình”, nghĩ đến người ta, bà thấy tủi thân mình, vì người ta giàu có, có của ăn của để lo được cho con, còn bà thì có “dăm ba mâm cơm” cũng không lo được cho con. Đằng sau dấu chấm lửng mà Kim Lân cố tình để lại ấy là nỗi lòng, là nước mắt của người mẹ già tội nghiệp. Rồi bà xót thương cho “số kiếp đứa con mình” vì bà hiểu rằng con trai bà không được bình thường, không được may mắn như con nhà người. Hơn nữa, Tràng lại lấy vợ trong hoàn cảnh đáng thương bởi bà hiểu trong hoàn cảnh nà nuôi mình còn chẳng nổi lại còn phải đèo bòng thêm một đứa. Điều này đã chứng tỏ bà cụ Tứ là một người mẹ nghèo thương con. Tuy nhiên, thương thì ai cũng thương nhưng tình thương của bà còn chất chứa cả nỗi đau, tủi hờn, ai oán. Chi tiết miêu tả bà cụ Tứ khóc lần thứ hai “nước mắt cứ chảy ròng ròng xuống” vẫn xuất hiện trong cuộc gặp gỡ người con dâu. Nếu như lần miêu tả thứ nhất giọt nước mắt của bà Tứ, Kim Lân dùng từ “rỉ” thì lần này, nhà văn lại sử dụng từ láy “ròng ròng”. Cách khóc “ròng ròng” giống như một sự giải tỏa, gột rửa những nỗi đau, tủi hận. Tiếng khóc lúc này không còn là sự kìm nén mà còn là sự giãi bày. Bà khóc để sẻ chia lòng mình, để tìm được sự thông cảm từ các con. Nhưng thật đặc biệt là lúc này anh Tràng đã đi ra ngoài, chỉ còn lại không gian riêng giữa bà Tứ và nàng dâu. Điều này đã cho thấy bà Tứ không chỉ thương con trai, thương bản thân mình mà còn thương người đàn bà xa lạ. Dường như hai người đàn bà đã tìm thấy điểm chung. Đó chính là sự sẻ chia, nương tựa vào nhau của những mảnh đời khốn khó. Khi miêu tả giọt nước mắt lần hai, Kim Lân đã sử dụng từ láy “ròng ròng”. Tuy nhiên, giọt nước mắt lần thứ hai đã cho thấy một diễn biến tâm lý hoàn toàn khác của bà Tứ. Nếu như lần thứ nhất, bà chua xót cho số phận của mình, thương con trai thì lần thứ hai “mừng”cho hạnh phúc của các con. Bao nhiêu nỗi niềm được nén lại của người mẹ trong mấy chữ“Ừ! thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Mẹ chỉ “mừng lòng” chứ không phải là “vui lòng”. Vì một lẽ giản đơn, đặt trong hoàn cảnh đói kém như thế nỗi mừng chưa đủ để gọi là vui. Nhưng chính câu nói ấy đã xua tan nỗi phấp phỏng lo âu cho Tràng, xóa đi nỗi bẽ bàng, lo sợ cho người con dâu, thổi vào tâm hồn đôi trẻ một luồng gió mới và mở ra một hạnh phúc trong tầm tay. Bà cụ khuyên nhủ, động viên con những điều chí tình, đôn hậu, tràn đầy niềm lạc người từng trải, kinh qua bao nỗi nhọc nhằn nên người mẹ ấy hiểu lắm, cảm thông lắm. Khổ đau, đói rét không quật ngã được người mẹ ấy vì mẹ tin rằng “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Đó cũng là triết lý sống dân gian đã dưỡng nuôi bao tâm hồn con người Việt. Mẹ động viên “Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá…”. Lời động viên ấy là lời chí tình là cả niềm tin mãnh liệt của bà. Bà dặn dò, bảo ban hai con “Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi”. Lời khuyên ấy của người mẹ là món quà vô giá, gói trọn bao tình yêu thương vô bờ của bà dành cho các con. Tấm lòng người mẹ ấy cao đẹp biết nhường nào! Hơn nữa, bà còn lo lắng cho tương lai của các con. Kim Lân hai lần tả bà cụ Tứ khóc và bốn lần trực tiếp tả nỗi lo lắng của bà “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không ?”. Nghĩ về cuộc đời mình bà lại càng lo cho con “Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không ?”. Lần thứ hai, người mẹ nghèo khổ ấy để những giọt nước mắt lo lắng, tủi buồn của mình chảy ròng ròng trên khuôn mặt già nua khắc khổ“Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Đến lúc nghe tiếng trống thúc thuế đầu làng, bà cụ lại một lần nữa xót xa “Giời đất này không biết có sống qua được không các con ạ?”. Nỗi lo lắng ấy và nước mắt bao lần chảy xuôi chính là lòng yêu thương con vô bờ bến của người mẹ Việt Nam. Thật đáng tự hào và quý trọng biết bao. Gạt đi nước mắt để sống lạc quan, bà là điểm tựa cho hạnh phúc của đôi vợ chồng son. Bà dậy sớm cùng con dâu thu dọn nhà cửa như để đón chào một cuộc sống mới tươi vui hơn “làm ăn có cơ khấm khá hơn” đang mở ra ở phía trước. Khuôn mặt bà cụ Tứ có sự thay đổi từ “bủng beo u ám” nay đã “rạng rỡ hẳn lên”. Kim Lân đã làm thay đổi mạch cảm xúc của toàn bộ câu truyện. Cái khuôn mặt ấy ngày hôm qua “bủng beo u ám” bao nhiêu thì hôm nay “rạng rỡ” bấy nhiêu đã làm cho sức sống của câu truyện bỗng bừng sáng ở những dòng cuối. Bà cụ Tứ quả thật đã như được hồi sinh lần thứ hai. Bà đã nhóm lên bếp lửa niềm tin cho các con bằng chính ngọn lửa lạc quan đang thắp sáng cõi lòng bà. Bữa ăn đầu đón nàng dâu thật thảm hại nhưng tất cả đều ăn rất ngon, vui vẻ. Dù ăn cả “chè khoán” bằng cám nhưng bà cụ vẫn tươi cười, chuyện trò rôm rả, thân mật với hai con. Bà lão nói “toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Hình ảnh đàn gà trong câu chuyện của bà cụ Tứ như một liều thuốc tinh thần mở ra bao điều tốt đẹp. “Đôi gà – đàn gà” là sự sinh sôi – sự sinh sôi lấn át sự huỷ diệt, sự sống lấn át cái chết. Chính câu chuyện ấy đã thổi hồn vào bữa ăn, vào khát vọng hạnh phúc của Tràng và người đàn bà. Về điều này, Kim Lân khẳng định “Khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống”. Đó cũng là tinh thần của nhân dân ta từ bao đời nay “Còn da lông mọc còn chồi nảy cây”. Ths Phan Danh Hiếu “Cái đẹp cứu vớt con người” Đôxtôiepki. Vâng Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là con nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã có đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đsoi nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn người đọc chính là điểm sáng tuyệt vời nhất.
bà lão cúi đầu nín lặng